Đại hội XIII của Đảng
là sự kiện chính trị trọng đại của Đảng và của dân tộc, là dấu mốc quan trọng
trong quá trình phát triển của Đảng, dân tộc, đất nước ta, có ý nghĩa định hướng
và tầm nhìn chiến lược cho tương lai, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ
công cuộc đổi mới, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và phát triển đất nước
nhanh và bền vững hơn. Đại hội đã xác định tầm nhìn xa hơn đến giữa thế kỷ XXI,
phấn đấu đưa nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đặt ra mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể phải hoàn thành cho mỗi chặng đường;
thể hiện rõ tính kế thừa và phát triển, tính liên tục và hoàn chỉnh trong tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các mục tiêu nêu cụ thể hướng tới những
dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta là: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm
giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có
công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm
2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp
hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở
thành nước phát triển, thu nhập cao”.(1)
Mục tiêu tổng quát và
mục tiêu cụ thể mà Đại hội đề ra là cơ sở hết sức quan trọng để xác định phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; bảo
đảm tính đồng bộ, khả thi, vừa đáp ứng được yêu cầu lâu dài, vừa có trọng tâm
và các khâu đột phá chiến lược cần ưu tiên triển khai thực hiện; tạo sự thống
nhất từ nhận thức cho đến hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong
giai đoạn từ nay đến giữa thế kỷ XXI.
Theo Quy định số
09-QĐi/TW ngày 13/11/2018 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy
của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Trường chính trị cấp tỉnh có chức
năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị
cấp cơ sở, cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương về lý luận chính trị -
hành chính; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về một số lĩnh vực
khác; tham gia tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về xây dựng Đảng, xây dựng
hệ thống chính trị ở địa phương.
Việc kịp thời cập nhật, quán triệt các tư duy, quan điểm mới
của Đại hội XIII vào giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở các trường chính trị là
việc làm thường xuyên và quan trọng. Đây là công việc đòi hỏi cán bộ giảng viên
phải nghiên cứu một cách công phu, nghiêm túc những nội dung của văn kiện để vận
dụng vào bài giảng và nghiên cứu khoa học. Trong phạm vi bài viết này, tác giả
chỉ đề cập đến một số nội dung cụ thể vận dụng Nghị quyết đại hội XIII của Đảng
vào giảng dạy bài 1: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” môn đường lối, chính sách của đảng và nhà nước việt nam thuộc chương
trình Trung cấp Lý luận Chính trị. Đây là bài học trang bị cho học viên những
kiến thức về kinh tế thị trường, các yếu tố của nền kinh tế thị trường; giúp học
viên nắm vững bản chất và đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta; cung cấp những vấn đề thực tiễn về kinh tế thị trường Việt Nam hiện
nay và các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta. Trong quá trình giảng dạy, để hiểu và làm rõ hơn quan điểm, đường
lối của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay, giảng viên cần cập nhật những nội dung mới, quan điểm mới về
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN theo tinh thần Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng vào bài giảng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã thống nhất và nâng
cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Báo cáo Chính
trị nêu rõ nội hàm của kinh tế thị trường định hướng XHCN như sau: “Kinh tế thị
trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá
độ lên CNXH. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng
XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước”.(2)
Trên cơ sở đó, giảng viên cần giải thích và làm cho người học
hiểu rõ về mô hình kinh tế mà nước ta đang xây dựng phát triển hiện nay là một kiểu kinh tế thị trường
mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa
tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn
dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên
cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. “Đây không phải là nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa đầy đủ”.(3)
Thứ hai, đặc trưng đặc thù của kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Từ
quan điểm của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng XHCN, giảng viên cần tập
trung làm rõ đặc trưng đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trên các phương diện sau:
Về
mục tiêu phát triển của nền kinh tế.
Trong phần mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, giảng viên cần tập trung làm rõ việc phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm:
Phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất
cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao năng suất lao động xã hội; từng
bước xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa; thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy mục tiêu quan trọng của phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là hướng tới xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Từ đó, các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội đều phải hướng tới mục tiêu này.
Về
chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế:
Theo Văn kiện Đại hội XIII, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN Việt Nam hiện nay có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp
tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng;
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp
với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Các nội dung cần làm rõ trong mục này theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng là:
Các chủ thể kinh tế được quyền lựa chọn các hình thức sở hữu
để phù hợp với yêu cầu và phát huy tối ưu tiềm năng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh theo luật pháp.
Hình thức công hữu ngày càng trở thành hạt nhân cơ bản trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế.
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế được tự chủ sản xuất kinh doanh và
chịu sự điều tiết của các quy luật thị trường, luật
pháp của Nhà nước.
Giữa các chủ thể vừa có sự hợp tác, vừa có cạnh tranh và được bình đẳng trước pháp luật.
Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường.
Về quản lý nền kinh tế
trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nêu rõ mối quan hệ giữa
nhà nước, thị trường và xã hội. Điểm mới nổi bật chính là trong quan hệ này bổ
sung thêm nhân tố xã hội. Trong đó cũng nêu rõ vai trò của nhà nước, thị trường
và xã hội trong mối quan hệ chung. Nội dung xã hội được thể hiện ở chỗ các tổ
chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn
đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên
trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác, cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các
thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với nhà nước
và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát cơ
quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường vừa qua đã xác
định một trong những cản trở chính là hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện,
chồng chéo, ảnh hưởng đến phát triển nói chung. Đồng thời, trước yêu cầu phát
triển mới, đặc biệt tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều
ngành nghề mới ra đời cần phải có môi trường pháp lý đảm bảo cho sự phát triển.
Vì vậy, Văn kiện nêu rõ, “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi
thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số phát triển
kinh tế số, hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới,
mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo,
cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính…”
Về phân phối trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Đảng ta khẳng định: Phân phối trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm phân phối các nguồn lực quốc gia cho sự phát triển
kinh tế - xã hội và phân phối thu nhập.
Giảng viên cần tập trung làm rõ phân phối thu nhập trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định: đảm bảo
từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Căn cứ để tiến hành phân
phối là kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; đồng thời, kết hợp với các hình
thức phân phối khác để huy động được nguồn lực xã hội như: phân phối theo vốn,
theo tài năng, tài sản đóng góp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh các hình thức phân phối thu nhập đó cần thực hiện các chính sách an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội để thực hiện xóa đói, giảm nghèo nhất là các đối
tượng chính sách, vùng sâu, vùng xa.
Thứ ba, về thực trạng và giải pháp phát triền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đối với nội dung thực trạng phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Giảng viên cũng cần phải bổ sung những thành tựu trong phát
triển kinh tế thị trường được đưa ra trong Văn kiện Đại hội XIII vào bài giảng,
như: Tăng trưởng kinh tế khá cao trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh,
môi trường quốc tế không thuận lợi), kinh tế vĩ mô ổn định khá vững chắc, cán
cân thương mại được cải thiện,cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, sức cạnh
tranh của nền kinh tế, đời sống nhân dân được nâng cao…
Đối với nội dung một số giải pháp cơ bản phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam:
Giảng viên cần bổ sung những giải pháp được đưa ra trong “Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021 - 2030)” vào nội dung phần 2.4 về
“Các giải pháp chủ yếu để phát triển Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam” của bài như: Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp
luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi, bảo đảm chấp hành pháp luật
nghiêm minh; Bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an toàn trong hoạt động kinh doanh;
huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường;
Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để
thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mô hình kinh tế mới,
khởi nghiệp sáng tạo…; khẩn trương hoàn thành việc xây dựng và thực hiện hiệu
quả các quy hoạch; cải cách thủ tục hành chính quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả;
xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, phục vụ người dân, doanh nghiệp…
Như vậy, để giảng bài 1: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ” giúp học viên nhận thức rõ hơn về mô hình
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay và nâng cao chất lượng của
bài giảng viên đòi hỏi giảng viên cần phải cập nhật những quan điểm, mục tiêu,
giải pháp về phát triển kinh tế thị trường của Đảng ta trên cơ sở nghiên cứu
giáo trình và nghiên cứu những nội dung về phát triển kinh tế thị trường trong
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, lựa chọn những điểm nổi bật, xuyên suốt để vận
dụng bổ sung vào bài giảng góp phần tuyên truyền, quán triệt nghị quyết của Đảng,
đưa nghị quyết của Đảng vào đời sống thực tiễn./.
Tài liệu tham khảo:
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, tập ..., tr...
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị
quốc gia, H.2021, tập I, tr 128.
(3) Giáo sư, Tiến
sỹ Nguyễn
Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".
Đinh Khắc Trung Ths. Giảng viên Khoa Xây Dựng Đảng |