Cách mạng tháng
Tám thành công, thành lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà – Nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng ta giữ cương vị cầm quyền mới được hơn
hai năm, cả dân tộc hưởng thành quả của cuộc cách mạng chưa lâu thì đã phải tiếp
tục bước vào cuộc đấu tranh mới chống thực dân Pháp tái chiếm. Bộ máy chính quyền
non trẻ - trong điều kiện phải tập trung sức lực cho công cuộc cách mạng –
không tránh khỏi bộc lộ những nhược điểm, sai sót trong phương thức lãnh đạo, lề
lối làm việc mà nếu chậm khắc phục sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng cũng như sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh (lấy bút danh X. Y. Z) viết “Sửa đổi lối làm việc” và hoàn thành vào tháng
10/1947 tại Chiến khu Việt Bắc. Đây là tác phẩm chứa đựng những tư tưởng quan
trọng của Người, vạch ra những sai lầm, khuyết điểm, chấn chỉnh lại nhận thức
tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công
tác của cán bộ, đảng viên để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng, giành
thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Gần 80 năm trôi
qua, những nội dung mà tác phẩm đề cập vẫn mang tính thời sự. Tác phẩm vẫn là một
trong những văn kiện hết sức giá trị mà Người để lại cho chúng ta trong kho
tàng di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, “tự phê bình và phê bình” là một
trong những tư tưởng rất quan trọng, được Người đề cập nhiều lần nhất trong tác
phẩm bởi tầm quan trọng đặc biệt của nó đối với công tác xây dựng Đảng. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về “tự phê bình và phê bình” chứa đựng những định hướng, giải pháp
quan trọng để Đảng ta không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đồng
thời là chỉ dẫn để mỗi đảng viên tự soi mình, tự sửa để nâng cao đạo đức cách mạng,
gánh vác được những trọng trách của Đảng và Nhân dân giao phó.
Trong tác phẩm,
Người chỉ ra nhiều căn bệnh và chia những căn bệnh đó thành 3 loại chính là
khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan; khuyết điểm về mối quan hệ trong
Đảng với ngoài Đảng, tức là bệnh hẹp hòi và khuyết điểm về cách nói và cách viết,
tức là ba hoa. Để sửa chữa những căn bệnh, khuyết điểm trên, “phương thuốc”
mà Người đưa ra là “tự phê bình và tự phê bình”.
Theo Người, mục
đích phê bình để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, để sửa đổi cách làm việc
cho tốt hơn, đúng hơn, hướng tới mục tiêu đoàn kết và thống nhất nội bộ, góp phần
xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Với mục đích như vậy, Người cho
rằng để thực hiện tốt phê bình, “ta phải tự phê bình ráo riết, và phải lấy lòng
thân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó
phải đi đôi với nhau. Trong lúc phê bình, khuyết điểm phải vạch ra rõ ràng, mà
ưu điểm cũng phải nhắc đến. Một mặt là để sửa chữa cho nhau. Một mặt là để khuyến
khích nhau, bắt chước nhau”. Như vậy,
tự phê bình mình cũng như phê bình người – theo tư tưởng Hồ Chí Minh - phải
trên cơ sở lòng nhân ái, yêu thương đồng chí, làm triệt để, thật thà, không
thêm bớt. Trong khi tự phê bình và phê bình phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết
điểm, không dùng những lời mỉa mai, chua cay, không lợi dụng phê bình để mưu việc
cá nhân và “phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”.
Theo Người, tự phê
bình và phê bình là giải pháp căn bản, hữu hiệu nhất để mỗi cán bộ, đảng viên
có thể tự nhìn thấy khuyết điểm của mình, cũng như giúp đồng chí của mình thấy
được khuyết điểm để sửa chữa. Do đó, Điều lệ Đảng ta nêu rõ: “Đảng là một
tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,
thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc :
tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng,
gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.” Hiện nay, có thể
nói “tự phê bình và phê bình” vẫn là phương thức sinh hoạt Đảng hiệu quả, là
“phương thuốc” hiệu nghiệm để Đảng ta nâng cao sức đề kháng, xây dựng Đảng vững
mạnh, ngang tầm nhiệm vụ là một Đảng cầm quyền.
Bản thân là giảng viên Trường Chính trị tỉnh
Ninh Bình - ngôi trường đào tạo Trung cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo
quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ công chức, viên chức của tỉnh
và bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên, chuyên viên chính – tư tưởng Hồ
Chí Minh là một trong những nội dung lý luận cơ bản được giảng dạy. Bên cạnh việc
truyền bá tư tưởng Hồ Chí Minh thì người giảng viên cũng đồng thời phải là người
nêu gương trong việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh. Từ việc nghiên cứu tư tưởng của Người về “tự phê bình và phê
bình” trong “Sửa đổi lối làm việc”, bản thân rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, “tự phê bình và phê bình” theo tư
tưởng Hồ Chí Minh không chỉ dành cho đảng viên mà còn là phương thức dành cho tất
cả mọi người tự hoàn thiện mình, giải phóng các tiềm năng của bản thân. Khi mỗi
người thực hiện tự phê bình và phê bình, nghĩa là người đó đã tiến thêm một bước
tới chỗ làm chủ được bản thân, điều chỉnh được suy nghĩ và hành vi của mình. Việc
tự hoàn thiện lúc này trở thành tự giác, không còn là thụ động, phụ thuộc vào sự
hối thúc của ngoại cảnh. Khi mỗi người làm chủ được bản thân thì lúc đó mới có
thể thay đổi được chính mình và xã hội. Vì vậy, mỗi người cần nhận thấy đây là
một công cụ hữu hiệu không chỉ giúp hoàn thiện bản thân tốt hơn, đồng thời giúp
người khác tốt hơn, thúc đẩy xã hội phát triển.
Thứ hai, bản thân cần có thái độ cầu thị trong
tiếp nhận phê bình, bởi một lẽ thường tình rằng cá nhân không phải ai cũng toàn
năng, “nhân vô thập toàn”. Có nhận thức như vậy để tránh sa vào quá tự tin cho
rằng bản thân mình không hề có khuyết điểm hoặc luôn cho rằng không ai
hơn mình hay cho rằng người phê bình không có ý tốt mà xét nét, đề phòng. Bên cạnh
đó, thực tế rằng người khác nhìn khuyết điểm sẽ rõ hơn bản thân tự nhìn nhận
khuyết điểm của mình. Do đó, cần chịu khó lắng nghe ý kiến của Nhân dân, đồng
nghiệp, đồng chí, luôn có thái độ tích cực trong tiếp nhận các nhận xét của mọi
người, coi đây là những đóng góp quý báu của người khác với mong muốn giúp cho bản
thân mình tốt hơn, là sự quan tâm thiết thực trên tinh thần đồng chí, đồng nghiệp.
Không nên vì bị phê bình mà chán nản hoặc oán ghét. Thái độ khi được phê bình
cũng là biểu hiện của bản lĩnh người đảng viên.
Thứ ba, việc tự phê bình cần diễn ra thường xuyên. Bởi vì với khối lượng
công việc nhiều, trong quá trình thực hiện sẽ khó có thể tránh khỏi những khuyết
điểm. Bên cạnh những khuyết điểm cũ có thể xuất hiện những khuyết điểm mới. Do
đó, việc tự phê bình cần được thực hiện thường xuyên như “rửa mặt hàng ngày”. Khi
đã nhận thấy khuyết điểm thì bản thân phải có lộ trình, kế hoạch để sửa đổi,
thông qua tự sửa chữa, cố gắng học lấy cái hay của người khác và tránh lặp lại
khuyết điểm người khác đã mắc phải. Khi đã sửa được rồi cần tránh mắc lại và luôn
khuyên bảo mọi người tránh mắc phải những khuyết điểm đó.
Thứ tư, thực hiện phê bình đối với đồng chí,
đồng nghiệp, bạn bè,… phải thực tâm và khéo.
Trước hết, cần khắc phục thái độ “nể nang
không phê bình”, “dĩ hoà vi quý”. Thái độ này dẫn tới hai hậu quả, hoặc là làm
“cho đồng chí mình sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc”, thế là có tội với đồng
chí của mình, có tội với Đảng; hoặc là đưa tới tình hình “trước mặt thì nể, kể
lể sau lưng” gây mất đoàn kết trong Đảng. Phê bình không phải là đố kỵ, trù dập
hay hạ bệ người khác mà phải được thực hiện thành tâm với mục đích mong muốn đồng
chí, đồng nghiệp, bạn bè… trở nên tốt hơn.
Bên cạnh đó, để thực hiện phê bình đồng chí
thì trước hết mình phải làm gương bởi nếu bản thân không gương mẫu thì khi phê
bình, tính thuyết phục sẽ không cao. Phải xác định rõ mục đích của phê bình cốt
để giúp nhau sửa chữa và tiến bộ, cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn,
đúng hơn, cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Xác định đúng mục đích thì phê
bình mới thực sự góp phần giúp người được phê bình thay đổi tích cực, giúp tổ
chức đoàn kết và phát triển.
Ngoài ra, khi phê bình cũng phải cất nhắc phê
bình sao cho khéo, không phê bình chỗ đông người tránh làm họ mất mặt. Cách phê
bình phải thực hiện theo đúng nguyên tắc mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra là “phê bình
việc chứ không phê bình người”. Việc phê bình cần lựa chọn đúng lúc, đúng thời
điểm để phê bình đạt hiệu quả như mong muốn.
Tóm lại, tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” là một
trong những di sản quý giá mà Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta. Trong
đó, tư tưởng về “tự phê bình và phê bình” được Hồ Chí Minh trình bày rất giản dị,
gần gũi, cụ thể và dễ hiểu, mang ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận và thực tiễn
trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay. Đây là công cụ, vũ khí sắc
bén mà mỗi cán bộ, đảng viên phải sức học tập và làm theo, tự sửa đổi những
khuyết điểm của bản thân, nâng cao đạo đức mạng, chất lượng công việc, góp
phần vào việc hoàn thành thắng lợi những công việc chung mà Đảng và Nhân dân
giao phó./
Ths. Quách Đỉnh Phúc
Giảng viên khoa Lý luận cơ sở
|