Mùa xuân năm 1930 tại Hương Cảng (Hồng Kông) Trung Quốc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức hội nghị hợp nhất
ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, trong đó có vai trò quan
trọng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - người đã tìm ra con đường cứu nước cho cách
mạng Việt Nam, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước, chuẩn bị tích cực
các mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Năm 1858, Thực dân Pháp nổ súng xâm lược đất nước ta. Dưới sự áp bức bóc
lột của chế độ thực dân, phong kiến, các phong trào yêu nước đã liên tiếp nổ ra
trên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Tuy nhiên các phong trào này đều thất bại vì
thiếu một đường lối đúng đắn, thiếu một phương pháp đấu tranh phù hợp và nhất
là chưa có một tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc. Chứng kiến nỗi thống khổ của người dân và căm phẫn sự đàn áp hết
sức dã man của chủ nghĩa thực dân, với lòng yêu nước nồng nàn cùng với khát
vọng giành lại hoà bình, độc lập cho dân tộc, ngày 05/6/1911, người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Chính ý chí và
khát vọng ấy đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở đó con
đường cách mạng đúng đắn - cách mạng vô sản. Sau khi tìm thấy con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc, để biến mục tiêu, lý tưởng cách mạng thành hiện
thực, việc Người quan tâm hàng đầu đó là sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, vì
vậy đã trực tiếp chuẩn bị những điều kiện cần thiết về tư tưởng, chính trị và
tổ chức để thành lập một Đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam. Điều này được
biểu hiện trên các hoạt động cụ thể:
Về tư tưởng: Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò quan
trọng của công tác tuyên truyền, giác ngộ Nhân dân, giữa năm 1921, Nguyễn Ái Quốc
cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa thành lập Hội Liên hiệp thuộc
địa, sau đó sáng lập tờ báo “Le Paria” (Người cùng khổ) vào ngày 01/4/1922. Người
viết nhiều bài báo tố cáo chế độ áp bức của bọn thực dân, phong kiến đăng trên
các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế...
Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn
Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương. Người đã góp phần
quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa,
chỉ rõ bản chất, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc
thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới nhằm kêu gọi,
thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng dân tộc.
Người đã dành
nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu, tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây
dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với
các nước thuộc địa và phụ thuộc. Điều đó tạo cơ sở củng cố mối quan hệ khăng
khít giữa các dân tộc thuộc địa trong đó có Việt Nam. Từ đây, Người tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Với những hình thức, phương
pháp tuyên truyền giản đơn, dễ hiểu; những nội dung thiết thực phù hợp với trình độ, lứa tuổi của
người dân, phù hợp với đặc điểm tình hình đất nước làm thay đổi nhận thức của
mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Từ đó tạo nên sự thống nhất tư tưởng và
hành động của toàn dân tộc.
Về chính trị:
Từ thực tiễn lịch sử phong trào cách mạng của thế giới lúc bấy giờ, Nguyễn Ái
Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức chỉ có giải phóng
giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ
có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới. Mặt khác,
Người nhấn mạnh: cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng
chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng không phụ thuộc
vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính
quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc. Khi nhận thức về Đảng Cộng sản,
Người khẳng định: cách mạng muốn giành được thắng lợi "trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”(1).
Người
đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng
Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt
cán của “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm
1927, những bài giảng của Người trong các lớp huấn luyện được in thành sách lấy
tên là “Đường Kách mệnh”. Trong tác phẩm, Người khẳng
định vai trò quan trọng của Đảng Cộng sản là
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng”(2).
Về tổ chức: Người đã trực tiếp huấn luyện, đào
tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc)
để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn
Ái Quốc thành lập “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”. Hội
đã công bố chương trình, điều lệ của Hội với mục đích: để làm cách mệnh dân tộc
(đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới
(lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản). Về tổ chức gồm 5
cấp: tổng bộ, xứ (kỳ) bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Sau khi thành lập đã mở
lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cho những người trong tổ
chức “Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên”. Để
tuyên truyền, Hội cho xuất bản tờ báo Thanh niên in bằng chữ quốc ngữ, ra được
208 số. Tuy “Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên” chưa phải là chính đảng
cộng sản nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập trường của
giai cấp công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới sự ra đời các tổ chức cộng sản
ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong
nước và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính
đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và
thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước
Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, tại Việt Nam đã hình thành ba tổ chức
cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ và
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở Trung Kỳ. Sự ra đời ba tổ chức cộng sản khẳng
định sự phát triển về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết
của dân tộc Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ
chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ
lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo.
Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người
duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các
tổ chức cộng sản thành một tổ chức cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Hương Cảng (Hồng Kông) Trung
Quốc, Hội nghị đã được tiến hành dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc,
nhất trí hợp nhất ba tổ chức Cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội
nghị thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương
trình tóm tắt do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, các văn kiện đã trở thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Như vậy, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người
chuẩn bị mọi điều kiện về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc ra đời Đảng
Cộng sản Việt Nam vào mùa xuân năm 1930. Đó là thành quả tất yếu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, mà lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc giữ vai trò là người kiến tạo và sáng lập.
Hướng tới kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Đảng (1930 - 2022),
chúng ta càng ghi nhận công lao to lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng
của dân tộc ta. Để khắc sâu công lao của Người, mỗi cán bộ đảng viên càng ra
sức học tập để thấm nhuần đạo đức cách mạng của Người, xây dựng bản lĩnh chính
trị vững vàng trên cơ sở “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên
tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”(3) tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo
của Đảng, học tập đạo đức và phong cách của Người để vận dụng vào giải quyết
những vấn đề thực tiễn trong công cuộc đổi mới, đấu tranh chống các quan điểm
sai trái, thù địch đối với cách mạng Việt Nam, góp phần tích cực hiện thực hóa
các Nghị quyết của Đảng trong cuộc sống.
Nguồn trích:
(1). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 289.
(2). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.304.
(3). Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, H.2021, tr.324.
Ths.GVC Phạm Thị Thu Hằng
Phó
Trưởng khoa Lý luận cơ sở
|