Khoản 1 Điều 119 Hiến pháp 2013 quy
định: Hiến pháp là luật cơ bản của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Vì vậy, quy định
vị thế của Đảng Cộng sản trong Hiến pháp là sự khẳng định mang tính tối thượng,
thể hiện bản chất của chế độ chính trị ở Việt Nam và đảm bảo tính thống nhất,
xuyên suốt về quan điểm, tôn chỉ mục đích của Đảng. Trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện Hiến pháp qua các thời kỳ, nhận thức về vai trò của Đảng ngày càng
đầy đủ, hoàn thiện hơn. Kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến
nay, nước ta đã có năm bản Hiến pháp. Các bản Hiến pháp ra đời trong những bối
cảnh lịch sử khác nhau, nhưng đều thể hiện nhất quán quan điểm lãnh đạo cách
mạng, lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước tiên, điểm chung của các bản Hiến pháp
là những ghi nhận ở phần mở đầu: Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đảng ta ra đời là kết quả của sự kết hợp chín
muồi giữa ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào
yêu nước của người dân Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Từ
một Đảng non trẻ, sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được thắng
lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám lập nên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa -
Nhà nước công - nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Bằng bản lĩnh, trí tuệ,
phát huy tinh thần đoàn kết, nhất trí cao cùng với sự hy sinh anh dũng của các
thế hệ cán bộ, đảng viên, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, che chở, Đảng đã trở
thành ngọn cờ tập hợp và quy tụ sức mạnh của mọi tầng lớp, giai cấp đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đã tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đưa đất
nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, trở thành nước có thu nhập trung bình
trên thế giới. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quan
trọng hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, ghi nhận vị thế lãnh đạo của Đảng qua
năm bản Hiến pháp
Hiến pháp 1946: sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, Chính quyền cách mạng non trẻ mới ra đời đã phải đối phó với “thù
trong giặc ngoài” đặt đất nước vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình hình
đó, Đảng phải tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất là rút lui vào hoạt động bí
mật. Khi đó tồn tại bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam còn có các Đảng khác như
Đảng Dân chủ Việt Nam thành lập 1944, Đảng Xã hội Việt Nam thành lập 1946. Do
đó, Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa
đề cập đến vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiến pháp 1959: thời điểm ban
hành Hiến pháp 1959 vị thế lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế
cách mạng khẳng định. Tuy nhiên đó cũng là lúc Đế quốc Mỹ bắt đầu can thiệp vào chiến
trường miền Nam, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Bộ luật 10/1959 của ngụy
quyền Sài Gòn “lê máy chém” đi khắp nơi nhằm tiêu diệt cộng sản. Vì vậy, các tổ
chức Đảng ở miền Nam phải hoạt động bí mật để tránh tổn thất. Trước tình hình đó
Hiến pháp 1959 cũng chưa quy định trực tiếp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Tuy nhiên, trong Lời nói đầu của Hiến pháp đã thể hiện “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã
tiến lên một giai đoạn mới.”; “Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng lao động
Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận dân tộc thống nhất, nhất định sẽ
giành được những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà. Nhân dân ta nhất định xây dựng thành
công một nước Việt Nam hào bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp
phần xứng đáng vào công cuộc bảo vệ hòa bình ở Đông Nam châu á và thế giới”. Với sự ghi nhận đó, mặc dù chưa khẳng định trực
diện thành quy tắc pháp lý vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng
đã tiếp tục nhấn mạnh vị thế lãnh đạo Chính phủ, nhân dân ta thực hiện mục
tiêu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam.
Hiến pháp 1980, ra đời sau khi
miền Nam Việt Nam được giải phóng hoàn toàn, giang sơn thu về một mối, đất nước
Việt Nam thống nhất có độc lập, chủ quyền, sánh vai cùng các cường quốc năm
châu. Chính vì vậy nhận thức về vai trò của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta ngày càng rõ hơn trên cả phương diện lí luận lẫn thực
tiễn. Lần đầu tiên tại Điều 4 Hiến pháp 1980 đã khẳng định địa vị pháp lí,
bản chất, vai trò của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học
thuyết Mác - Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội;
là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng tồn
tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ
chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.
Như vậy, Hiến pháp 1980 quy định về vị thế lãnh đạo
Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nâng lên thành quy tắc
pháp lý có giá trị cao nhất, trở thành nguyên tắc hiến định trong đời sống xã
hội Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy học thuyết Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng của Đảng.
Hiến pháp 1992, ra
đời phản ánh những đòi hỏi cấp thiết của lịch sử. Để đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng, dần đi vào thế ổn định, phát triển, Đại hội VI của Đảng năm 1986
đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là về kinh tế; với chủ
trương nhìn thẳng vào sự thật, khắc phục những sai lầm trong đường lối, chủ
trương, chính sách; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sự sáng tạo của nhân dân
lao động; nhận thức đúng hơn về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Vì vậy, nội dung về Đảng
tiếp tục được khẳng định tại Điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức
của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Đảng
Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đi đầu trong việc nắm vững ngọn cờ lãnh đạo cách mạng - thống
nhất được quyền và lợi ích của toàn dân tộc. Hiến pháp 1992 bên cạnh xác định
nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin như Hiến pháp 1980, Hiến
pháp 1992 bổ sung thêm lấy tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Quy định này của Hiến pháp 1992 là sự thể chế hóa quan điểm
của Đảng trong Cương lĩnh 1991: “Đảng lấy
chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động” và hoàn toàn phù hợp với thời đại mới.
Một Đảng cách mạng muốn vững mạnh và đủ sức lãnh đạo
trước hết phải được xây dựng trên nền tảng tư tưởng vững chắc, chủ nghĩa Mác -
Lênin “tư tưởng Hồ Chí Minh” không chỉ là “cẩm nang” thần kỳ, kim chỉ nam mà
còn là ngọn cờ soi sáng cho chúng ta đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam là sự lựa chọn tất yếu khách quan do lịch sử chọn lọc, hợp quy
luật, hợp lòng dân.
Hiến pháp 2013 trên cơ sở Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa năm 1991 (bổ sung,
phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với kết quả tổng kết thực
tiễn qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đặt ra yêu
cầu phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 nhằm thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Hiến pháp năm 2013 ra đời thay thế Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2011). Đây là bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây
dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế của nước ta, đồng thời
đánh dấu bước phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao
động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với
Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân về những quyết định của mình.Các tổ chức của Đảng và đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 có sự bổ
sung và phát triển quan trọng, đã khẳng định và làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản
chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không
chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà đồng thời
là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong Điều 4 của Hiến pháp 1992 không nói rõ trách
nhiệm của Đảng, Hiến pháp 2013 đã đưa vào và nhấn mạnh Đảng phải gắn
bó mật thiết với nhân dân. Đó là sức sống của Đảng. Thêm vào đó, Đảng
phải phục vụ nhân dân, phải chịu sự giám sát của nhân dân và
phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.
Nếu như quyết định không đúng, ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, nhân
dân thì Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và trước dân tộc. Đây là điểm
rất mới về trách nhiệm của Đảng cầm quyền được ghi nhận chính thức trong Hiến
pháp.
Đảng cầm quyền nào cũng có vai trò
lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Trong xã hội Việt Nam có lực lượng của
nhiều tổ chức chính trị – xã hội khác nhau nên sự ghi nhận chính thức vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp là rất cần thiết. Với sự
ghi nhận đó, Đảng có trọng trách trong việc lãnh đạo xây dựng bộ máy chính
quyền, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của dân
tộc và thời đại để giành thắng lợi cho cách mạng.
Có thể thấy, qua các bản Hiến pháp, nhận thức về vị
thế lãnh đạo Nhà nước và xã hội, về vai trò của Đảng ta ngày càng hoàn thiện,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Trong bối cảnh hiện nay với sự tác động
mạnh mẽ của tình hình khu vực và thế giới, các thể lực thù địch và phản động
vẫn đang tìm cách thực hiện các âm mưu, chiến lược
“Diễn biến hòa bình”, tiến tới bạo loạn lật đổ, tác động từng bước chuyển hóa
chế độ chính trị ở nước ta. Trong đó, mục tiêu hàng đầu của chúng là xóa bỏ Điều
4 Hiến pháp, từ đó lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chính vì vậy, việc
bảo vệ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên cả phương diện pháp lí và
thực tiễn là rất quan trọng. Việc quy định vị thế lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam tại Điều 4 các bản Hiến pháp 1980, 1992, 2013 có giá trị như một
lời tuyên bố kiên định, dứt khoát về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam với Nhà nước và xã hội.
Ths: Quách Thị Hạnh
Giảng viên khoa: Nhà nước và pháp luật
|