Đại
đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong quá trình dựng
nước và giữ nước; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng
sản Việt Nam đã lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đem lại những
thành tựu to lớn. Vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức; đặc biệt là giai đoạn
sau khi thống nhất đất nước, cơ sở vật chất bị chiến tranh tàn phá nặng nề chưa
kịp khắc phục bên cạnh đó lại bị bao vây, cấm vận; mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và các nước Đông Âu bộc lộ nhiều khiếm khuyết… Do đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn chú trọng, tăng cường đoàn kết toàn dân tộc và phát huy mạnh mẽ
vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đưa đất nước tiến lên. Đặc biệt,
từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc từ năm 1986 đến nay, Đảng đã có nhiều chủ trương, quyết sách và biện
pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân; động
viên Nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.
Trong bối cảnh tình
hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Đảng và cả hệ thống chính trị cùng toàn
thể đồng bào ở trong nước và ngoài nước đã đoàn kết, chung sức đồng lòng, quyết
tâm “chống dịch như chống giặc” để từng bước đẩy lùi và vượt qua đại dịch
Covid-19. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phát huy vai trò nòng
cốt trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, Đảng đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo; vận động
các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo phát huy quyền làm chủ của nhân
dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; mở rộng, nâng cao hiệu
quả hoạt động đối ngoại nhân dân; vận động Nhân dân tích cực tham gia các
phong trào thi đua yêu nước và các chương trình an sinh xã hội...
Với những kết quả
đạt được trong việc tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc
đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, góp phần nâng tầm cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế trong giai đoạn phát triển mới, cao hơn, sâu sắc hơn. Đánh giá
những thành tựu đạt được, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội(Cương
lĩnh năm 1991), lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được
hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ
nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được
cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và
uy tín quốc tế như ngày nay”(1). Đây là niềm tự hào, là động lực,
nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt
qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn
diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Tuy nhiên hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực có những diễn biến
nhanh, phức tạp, khó dự báo; đan xen cả thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó
khăn, đối với sự nghiệp đổi mới nói chung, với xây dựng, củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân tộc nói riêng. Lợi dụng quá trình mở cửa, hội nhập, các thế lực
thù địch đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, kích động tư tưởng ly khai,
chia rẽ dân tộc, tạo ra mâu thuẫn, gây xung đột xã hội, làm mất ổn định chính
trị - xã hội. Những vấn đề đó đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với khối đại
đoàn kết toàn dân tộc…
Để khắc phục những hạn chế trong quá
trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời gian qua, đồng thời tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới, cần thực hiện một số
giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò, sức mạnh của đại
đoàn kết toàn dân tộc
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để các
cấp, các ngành, các lực lượng, mọi người dân nhận thức rõ và đúng về sự cần
thiết của tăng cường đại đoàn kết toàn dân. Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa
các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc. Ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách về dân tộc, tôn
giáo, chính sách xã hội nhằm khuyến khích, động viên, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện
những chính sách cụ thể, quan tâm các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, như:
công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh,
người cao tuổi; các chính sách xã hội, nhất là chính sách đối với thương binh,
gia đình liệt sĩ, những người có công với cách mạng, tạo điều kiện để họ khắc
phục khó khăn, bảo đảm cuộc sống, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
v.v.. Phổ biến và thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, giải quyết tốt những
vấn đề xã hội bức xúc. Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối
thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và
yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân và tôn trọng dân. Hoàn thiện hệ thống
pháp luật để “bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, nhân dân
thực sự làm chủ, được bày tỏ nguyện vọng của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân.
Kiên quyết đấu tranh với các quan điểm
sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cấp ủy
đảng, Mặt trận Tổ quốc các cấp và các đoàn thể tham gia tuyên truyền sâu rộng
để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch đã
lợi dụng những yếu kém, khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên cũng như
vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Từ đó, nâng cao tinh thần cảnh giác, sự nhạy bén trong nhận diện và tích
cực tham gia đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch.
Hai là, phát huy vai trò, sức mạnh của
cả hệ thống chính trị trong thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc
Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược
tạo ra sức mạnh để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đảng luôn chăm lo
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời
sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện dân chủ trên lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở tất cả các cấp các ngành. Mọi hoạt động của hệ
thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi
ích của nhân dân. Trong đó, tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm
của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi
đua yêu nước. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. Xây dựng thế trận
lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài
nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc: lấy
dân làm gốc, phát huy quyền làm chủ của dân, nguồn lực nhân dân, thực hiện đoàn
kết toàn dân; lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng và do Đảng Cộng
sản lãnh đạo; bảo đảm lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, quyền lợi cơ bản
của nhân dân lao động; tổ chức đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống
nhất; lấy tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục làm phương thức hoạt
động chủ yếu.
Ba là, phát huy vai trò của nhân dân
trong khối đại đoàn kết dân tộc
Trân trọng, tôn vinh những đóng góp,
công hiến của nhân dân; có cơ chế chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài. Tôn
vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước. Xóa
bỏ rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư
nhân lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước
của kinh tế tư nhân.... Có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho thế hệ
trẻ học tập, nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể
lực để cống hiến cho đất nước. Tôn trọng và tạo điều kiện, cơ hội để nhân dân
tham gia thảo luận, góp ý những vấn đề quan trọng của đất nước.
Thực hiện tốt chính sách bình đẳng
giới; hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Đối với đồng bào định cư ở
nước ngoài, cần có chính sách hỗ trợ bà con ổn định cuộc sống, phát triển kinh
tế, góp phần tăng cường hợp tác hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các
nước. Đồng thời, “... tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc; có cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp
xây dựng và bảo vệ đất nước”(2). Tiếp tục thực hiện tốt các cuộc vận
động, các phong trào thi đua yêu nước, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo trong nhân dân để phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng cho bản thân, cho
gia đình, nêu cao tính cộng đồng và truyền thống nhân ái, tham gia xóa đói giảm
nghèo.
Bốn là, giải quyết tốt các mối
quan hệ, thu hẹp những khác biệt giữa các bộ phận xã hội trong xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc
Đây
vừa là quan điểm chỉ đạo, vừa là chủ trương và giải pháp xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc ở Việt Nam trong tình hình mới. Ở nước ta hiện nay, các mối
quan hệ cần tập trung giải quyết để củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc là mối quan hệ dân tộc, tôn giáo, mối quan hệ với người Việt Nam ở nước
ngoài. Trong quan hệ dân tộc, Đảng xác định rõ luôn “bảo đảm các dân tộc bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển” đồng thời “chống kỳ thị
dân tộc, dân tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(3). Trong quan hệ
tôn giáo, Đảng nhấn mạnh phải “vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn
giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(4). Đối với người Việt Nam ở nước
ngoài, Đảng ta khẳng định đây là một bộ phận không thể tách rời của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, phải “Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước,
giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc
gia - dân tộc, có đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(5).
Việc giải quyết tốt các mối quan hệ này không chỉ trực tiếp góp phần củng cố
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà còn là cơ sở để đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá khối đại đoàn
kết toàn dân tộc ở nước ta.
Với
truyền thống đoàn kết vốn có và sự nỗ lực xây dựng, phát huy truyền thống quý
báu đó, nhất định toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta sẽ triển khai thực hiện
có hiệu quả chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng,
tiếp tục có những hoạt động năng động, sáng tạo, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa; thiết
thực, hiệu quả cao hơn nữa, góp phần tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp
nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc; tăng cường mối quan hệ gắn bó máu
thịt giữa nhân dân với Đảng và chính quyền, tạo thành sức mạnh to lớn để xây
dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc; đất
nước ta ngày càng phát triển, phồn vinh./.
------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính
trị quốc gia sự thật, tập 2, tr. 322.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc Gia, Hà Nội 2016, tr.165.
(3)
(4) (5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội. 2021, tr. 170, 171. 172.
GVC: Phạm Bích Hoa
Phó Trưởng khoa Xây dựng Đảng |