Cuối năm 1920, nước Nga Xô Viết ra khỏi
nội chiến, chuyển sang xây dựng chế độ xã hội mới trong điều kiện hoà bình song
với những khó khăn to lớn, hậu quả của chiến tranh đế quốc và nội chiến đã tàn
phá nền kinh tế nặng nề, tình hình kinh tế - xã hội rối ren, nông dân ở nhiều
nơi tỏ ra bất mãn với chính sách “Cộng sản thời chiến”. Trước tình hình đó,
tháng 3/1921, V.I.Lênin đã vạch ra Chính sách kinh tế mới (
NEP) thay cho Chính sách cộng sản thời chiến, được trình bày trong tác
phẩm “Bàn về thuế lương thực”. NEP gồm có
nhiều nội dung, như: phát triển kinh tế nhiều thành phần; chính sách thuế lương
thực; khôi phục và phát triển quan hệ trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và
công nghiệp;… Song phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và sử dụng chủ
nghĩa tư bản nhà nước được xác định là linh hồn của NEP trong xây dựng quan hệ
sản xuất mới xã hội chủ nghĩa.
Dựa trên quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng -
ghen về quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản phải trải qua thời kỳ
lịch sử đặc biệt, đấy là thời kỳ quá độ và đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời
kỳ này là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, V.I.Lênin đã khẳng định:
không thể quá độ trực tiếp, lên chủ nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp
là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Ở một nước tiểu nông lạc hậu như nước Nga, thì phải
trải qua nhiều mắt xích trung gian, phải qua những chiếc cầu nhỏ vững chắc, phải
đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vậy chủ
nghĩa tư bản nhà nước là gì?
Chủ nghĩa tư bản nhà nước theo V.I.Lênin
là sự kết hợp, liên hợp, hợp tác giữa nhà nước Xô viết, nền chuyên chính vô sản
với tư bản trong và ngoài nước. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những
hình thức rất thích hợp để giúp nước Nga Xô viết nhanh chóng khắc phục tình trạng
suy sụp kinh tế sau chiến tranh. Bởi vì, thông qua việc sử dụng chủ nghĩa tư bản
nhà nước, giai cấp vô sản có thể học tập, kế thừa và phát huy có chọn lọc tất cả
những tài sản vật chất - kỹ thuật và tinh hoa chất xám trong kinh nghiệm sản xuất
kinh doanh của các nhà tư bản cũng như tri thức khoa học - kỹ thuật và trình độ
khoa học quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. V.I.Lênin cho rằng: “Không
có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có
kinh nghiệm, thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được”1 và
“Người cộng sản không được sợ “học” các chuyên gia tư sản, kể cả những thương
gia, những nhà tư bản nhỏ tham gia hợp tác xã và các nhà tư bản khác... hãy làm
tốt hơn các chuyên gia tư sản làm việc bên cạnh mình; hãy biết dùng cách này
hay cách khác mà đẩy mạnh nông nghiệp, công nghiệp lên, mà phát triển sự trao đổi
giữa nông nghiệp và công nghiệp. Chớ nên suy tính về “học phí”, chớ có sợ phải
trả đắt, miễn là thu được kết quả tốt”2. Như vậy, chủ nghĩa tư bản
nhà nước theo V.I.Lênin là một bước tiến to lớn dù phải trả học phí, là một việc
làm đáng giá, điều ấy không những không làm cho đất nước bị diệt vong, trái lại
có thể đưa nước Nga đến chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất.
Bên
cạnh việc khôi phục kinh tế, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn giúp ngăn chặn những
nảy sinh tự phát của nền sản xuất hàng hoá nhỏ - mầm mống của sự phục hồi chủ
nghĩa tư bản. V.I.Lênin đặt câu hỏi: liệu có thể kết hợp, liên hợp, phối hợp
Nhà nước Xô-viết, nền chuyên chính vô sản, với chủ nghĩa tư bản nhà nước được
không? Tất nhiên là được. Người cho rằng, việc tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn
đứng mọi sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện
có hàng triệu người sản xuất nhỏ, chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối
với đảng nào muốn áp dụng nó. Từ đó, Người chủ trương phải lợi dụng chủ nghĩa
tư bản làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm
phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất
lên. V.I.Lênin nhiều lần khẳng định: chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến
so với thế lực tự phát tư sản, nó gần chủ nghĩa xã hội hơn kinh tế của sản xuất
hàng hoá nhỏ và tư bản tư nhân. Cùng với việc khẳng định vai trò, V.I.Lênin
cũng chỉ ra những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước Nga lúc bấy
giờ như: tô nhượng, hợp tác xã, đại lý, hợp đồng cho thuê. Tuy khác nhau,
song các hình thức này đều nhằm khôi phục và phát triển nền kinh tế hàng hoá của
Nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ, bảo đảm sự thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội một cách vững chắc.
Sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước rõ
ràng là sự cần thiết khách quan đối với nước Nga Xô viết lúc bấy giờ. Tuy
nhiên, V.I.Lênin chỉ rõ, việc cho phép phát triển các hình thức kinh tế quá độ
trong đó có chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng như việc sử dụng rộng rãi các quan hệ
trao đổi hàng hoá - tiền tệ theo tinh thần của NEP đó không phải là một sự đầu
hàng giai cấp tư sản, cho phép phục hồi tự do các quan hệ tư bản chủ nghĩa. Nhà
nước chuyên chính vô sản chỉ cho phép chủ nghĩa tư bản tồn tại ở mức độ cần thiết
có lợi cho công cuộc phục hồi kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để làm được
điều ấy, trong xây dựng quan hệ sản xuất mới một yêu cầu được V.I.Lênin đặt ra
là Nhà nước Xô viết phải biết sử dụng các hình thức, phương pháp điều tiết, kiểm
kê, kiểm soát không được để cho chủ nghĩa tư bản phát triển một cách tuỳ tiện “Muốn
không thay đổi bản chất của mình, nhà nước vô sản chỉ có thể thừa nhận cho
thương nghiệp tự do và cho chủ nghĩa tư bản được phát triển trong một chừng mực
nhất định nào đó và chỉ với điều kiện là thương nghiệp tư nhân và tư bản tư
nhân phải phục tùng sự điều tiết của nhà nước ”3 .
Việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước
cùng với đó là chính sách kinh tế nhiều thành phần trong xây dựng quan hệ sản
xuất mới đã đem lại những kết quả quan trọng. Ở nước Nga, chỉ sau một thời gian
thực hiện NEP, từ năm 1922, thành thị đã có đủ lương thực, thực phẩm, năm 1925
sản xuất nông nghiệp đạt 87%, công nghiệp đạt 75% sản lượng của năm 1913;
thương nghiệp đã được tăng cường mạnh mẽ (về nội thương, tổng mức lưu chuyển
hàng hóa năm 1926 bằng hai lần năm 1924; về ngoại thương, quan hệ buôn bán được
mở rộng với hơn 40 nước); ngân sách nhà nước tăng lên gần năm lần trong năm
1925 so với năm 1922; đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt, tình hình chính trị -
xã hội ổn định, khối liên minh công nông được củng cố, mối liên hệ thành thị
nông thôn được khôi phục phát triển4… Những kết quả to lớn trên đã
góp phần khẳng tính đúng đắn của việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong
xây quan hệ sản xuất mới phù hợp với đặc điểm của trình độ phát triển lực lượng
sản xuất ở Nga lúc bấy giờ. “Chính sách kinh tế mới” với việc sử dụng chủ nghĩa
tư bản nhà nước là đóng góp đặc sắc của V.I.Lênin về thực hiện nhiệm vụ xây dựng
quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là nơi hình thành những tư duy mới
và bước phát triển lớn lao về lý luận chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay.
Qua hơn 35 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản
nhà nước phù hợp với điều kiện đặc thù của đất nước. Ngay từ Đại hội VI, Đảng
ta đã thừa nhận kinh tế tư bản nhà nước là một thành phần kinh tế trong nền
kinh tế nhiều thành phần dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp
doanh. Đến Đại hội VIII Đảng chỉ rõ: "Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các
hình thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước
và hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài"5.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước được xếp thứ ba sau thành phần kinh tế nhà
nước và kinh tế hợp tác. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc
động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý của các
nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước.
Trên cơ sở đóng góp quan trọng của thành
phần kinh tế tư bản nhà nước, Đại hội Đảng IX và X tiếp tục khẳng định: “Trên
cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức
sở hữu và nhiều thành phần kinh tế... Các thành phần kinh tế hoạt động theo
pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh”6. Đảng ta cũng xác định rõ phải sử dụng
đa dạng, linh hoạt các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước. Tuy nhiên, để tránh
tính nhạy cảm trong cách sử dụng tên gọi, đến Đại hội XI, Đảng ta không xác định
tư bản nhà nước là thành phần kinh tế, mà được ẩn vào các thành phần kinh tế
khác, tùy thuộc vào mức độ đóng góp vốn chi phối. Trong đó, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, được xác định là hình thức quan trọng nhất của chủ nghĩa tư bản
nhà nước.
Về
phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam trong thập kỷ qua được
đánh giá là một trung tâm quan trọng thu hút nguồn vốn FDI của thế giới với hàng
ngàn dự án của tư bản nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư vào Việt Nam trên tất
cả các lĩnh vực. Có hàng trăm công ty, tập đoàn từ nhiều nước và vùng lãnh thổ
có dự án đầu tư tại Việt Nam. Tổng số vốn đầu tư lên tới hàng chục tỷ
USD, năm sau cao hơn năm trước, có nhiều dự án 100% vốn nước ngoài. Hàng chục vạn lao động trong nước đã có công
ăn việc làm, GDP hàng năm được tăng lên nhờ một phần đóng góp của thành phần
kinh tế này. Nghiên cứu về hiệu quả khu vực FDI trong giai đoạn 2011-2019 thấy
rằng, khu vực FDI đóng góp khoảng 25,7% cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chiếm
khoảng 13% GDP năm 2010 và tăng lên 19,6% GDP vào năm 2019. Theo Sách trắng
doanh nghiệp năm 2020 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố, thu nhập trung bình một
lao động của khu vực doanh nghiệp FDI đạt khoảng 11,2 triệu đồng/tháng, cao hơn
mức trung bình của nền kinh tế khoảng 1,2 lần (11,2/9,6)7.
Như vậy, lý luận của V.I.Lênin về chủ
nghĩa tư bản nhà nước không chỉ có giá trị đối với nước Nga trước đây, mà ngày
nay nó vẫn còn nguyên giá trị đối với những nước có xuất phát điểm thấp đi lên chủ
nghĩa xã hội như Việt Nam. Mặc dù đặc điểm thời đại ngày nay khác với thời đại
nước Nga Xô viết những năm 1920, song về bản chất khoa học của vấn đề, có thể
khẳng định hệ thống lý luận của V.I.Lênin trong NEP nói chung và việc sử dụng
các hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước nói riêng cơ bản là
không thay đổi, vấn đề quan trọng đặt ra là chúng ta cần nhận thức đúng đắn
di sản “chủ nghĩa tư bản nhà nước” của V.I.Lênin để từ đó vận dụng năng động,
sáng tạo, phù hợp với yêu cầu phát triển thực tiễn hiện nay của đất nước.
Tài
liệu tham khảo:
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2006, t36, tr 217.
2. V.I.Lênin:
Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2006, t.12, tr412.
3. V.I. Lênin
toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1978, t.44, tr.418.
4.https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh.
5. Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr.95.
6. Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr83.
7. https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/phat-huy-vai-tro-cua-fdi-trong-phat-trien-kinh-te-dat-nuoc-333279.
Phan Thị Hiền
Giảng viên: Khoa Lý luận cơ sở |