Giảm nghèo
bền vững là mục tiêu xuyên suốt, quan trọng hàng đầu của Đảng, Nhà nước ta
trong công cuộc đổi mới đất nước. Đại hội
XIII khẳng định: “đời sống nhân dân
đã được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới
3%; nhà ở xã hội được quan tâm; đã hoàn thành các mục tiêu phát triển Thiên
niên kỷ; trong có nhiều mục tiêu về giảm nghèo, y tế, giáo dục hoàn thành trước
thời hạn, được đánh giá là điểm sáng; đang tích cực triển khai thực hiện mục
tiêu phát triển bền vững đến năm 2030”(1). Tuy nhiên, “giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp
hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu – nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu
nhập, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn, xung đột xã hội”(2). Đặc biệt,
các đợt đại
dịch COVID-19 kéo dài liên tục đã ảnh hưởng lớn đến công tác giảm nghèo và
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Những năm qua, công tác giảm nghèo bền vững đã đạt được nhiều
kết quả quan trọng: hàng chục triệu hộ nghèo đã thoát nghèo, nhiều hộ có cuộc sống
trung bình, khá giả; nhiều địa bàn nghèo thoát khỏi tình trạng khó khăn và đạt
chuẩn nông thôn mới. Tính đến cuối năm 2021,
cả nước có 32 huyện, 125 xã đã thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; 125 xã
và 1.298 thôn hoàn thành chương trình 135; 24.000 công trình kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội được đầu tư; hơn 13 nghìn dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa
dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo hiệu quả với trên 2,2 triệu hộ
hưởng lợi; 5.500 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu
số được hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài(3). Nếu năm 1993, tỉ lệ hộ
nghèo cả nước là 58,1% thì năm 2021 chỉ
còn 2,23%(4).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác giảm nghèo bền vững
trong thời gian vừa qua còn một số những hạn chế nhất định, nguy cơ tái nghèo
còn cao. Đặc biệt, sự tác động của các đợt dịch Covid-19 từ năm 2021 đến nay, đã khiến thu nhập của các hộ gia đình, người lao động, trong
đó có người nghèo bị sụt giảm đáng kể, dẫn đến sự gia tăng nghèo tạm thời về thu
nhập và đẩy các hộ nghèo giảm sâu hơn vào tình trạng nghèo thu nhập. Nước ta
vẫn còn hơn 609 nghìn hộ nghèo, 850 nghìn hộ cận nghèo. Trong đó, Hà Giang với trên 34,8 nghìn hộ nghèo (tỷ lệ
18,54%), trên 24,5 nghìn hộ cận nghèo (13,04%,); tương tự Cao Bằng có trên 23,6
nghìn hộ nghèo (18,36% ), trên 21 nghìn hộ cận nghèo (16,34%,); Điện Biên có trên
36,9 nghìn hộ nghèo (27,33% ), trên 5,3 nghìn hộ cận nghèo (1,45%,); Quảng Ngãi
với trên 21 nghìn hộ nghèo (5,67% ), trên 12,5 nghìn hộ cận nghèo (9,29%,) và Đắc
Lắc với trên 31,5 nghìn hộ nghèo (6,34% ), trên 34,8 nghìn hộ cận nghèo (7,01%,)…(5).
Bước sang năm 2022,
theo chuẩn nghèo đa chiều được quy định
tại Nghị định số 27/2021/NĐ-CP, ngày 27/01/2021
của Chính phủ,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội dự kiến cả nước sẽ có khoảng 16,6% hộ
dân có thu nhập dưới chuẩn nghèo (gần 4,5 triệu hộ, tương ứng với 17 triệu
người) (6)
Giai đoạn 2021 – 2025, để thực hiện thắng
lợi mục tiêu tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5%/năm mà Nghị quyết Đại
hội XIII của Đảng đã đề ra, phấn đấu đến năm 2030, cơ bản không còn huyện
nghèo, xã đặc biệt khó khăn, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp giảm nghèo bền vững
sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030
Cần
tiếp tục quán triệt và thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 2/6/2021 của Ban Bí
thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến
năm 2030.
Nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, lãnh đạo các cấp, các ngành
và Nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với công tác giảm
nghèo.
Đổi mới hơn nữa nội dung thông tin, tuyên truyền,
bảo đảm thiết thực, hiệu quả để Nhân dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa và tin tưởng
thực hiện chính sách giảm nghèo; nhân rộng mô hình điển hình tiên tiến, đồng thời
khơi dậy truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, ý chí tự lực, tự cường, nỗ lực
vươn lên thoát nghèo bền vững, làm giàu chính đáng. Phát huy vai trò tích cực của
già làng, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong công tác tuyên
truyền, vận động quần chúng.
Hai
là, tiếp tục hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững từ
trung ương đến địa phương
Tập
trung triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 theo Quyết số 90/QQ-TTg, ngày 18/01/2022 của Thủ tướng
Chính phủ. Cần xây dựng chính sách hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo học nghề,
vay vốn giải quyết việc làm tại chỗ. Trên cơ sở định hướng quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, nhu cầu lao động trong các cơ sở doanh nghiệp
trên địa bàn để dạy nghề cho hộ nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo có việc
làm, tăng thu nhập. Khuyến khích xuất khẩu lao động đối với con em hộ nghèo,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực
hiện gắn kết giữa hai Chương trình mục tiêu quốc gia (giảm nghèo bền vững và xây
dựng nông thôn mớ)i để tăng cường các dịch vụ xã hội; có biện pháp để thu hẹp
khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển
kinh tế nhanh, bền vững. Hướng dẫn các xã, phường, thị trấn xây dựng mô
hình hợp tác xã, tổ hợp tác, tổ tự quản, hộ gia đình thoát nghèo, sản xuất giỏi,
làm kinh tế giỏi tiêu biểu; vận động các hộ khá giả giúp đỡ hộ
nghèo; xây dựng, nhân rộng các mô hình tốt, sáng kiến hay về giảm
nghèo bền vững.
Hưởng
ứng phong trào “Cả nước chung tay vì người
nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần có
nhiều hình thức để tiếp tục khơi dậy tinh thần “tương thân tương ái”, “nhường
cơm xẻ áo” vận động các đơn vị, tập đoàn, tổng công ty, các doanh nghiệp, các
nhà hảo tâm đồng hành ủng hộ nhằm, tạo nguồn lực quan trọng để giúp đỡ người
nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn do bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh
COVID-19.
Thứ ba, tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo
Huy
động cả hệ thống chính trị vào cuộc, cùng theo dõi, giám sát quá trình triển
khai thực hiện để đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chương trình giảm
nghèo bền vững đề ra.
Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ
quan quản lý nhà nước, cơ quan điều phối về giảm nghèo các cấp theo hướng tập
trung, thống nhất đầu mối quản lý; tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành
trong thực hiện công tác giảm nghèo; có chính sách khuyến khích cán bộ,
công chức, viên chức có năng lực, nhiệt tình về công tác tại vùng
nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Xây dựng cơ sở dữ liệu về giảm nghèo, tăng
cường cung cấp thông tin, giúp người nghèo kết nối với thị trường lao động, thị
trường hàng hóa...
Thứ
tư, kết hợp đầu tư từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội hợp
pháp khác phục vụ hiệu quả công tác giảm nghèo
Tiếp
tục rà soát, thực hiện hiệu quả các chính sách, nhiệm vụ, giải pháp giảm nghèo;
ưu tiên bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội
hợp pháp khác phục vụ hiệu quả công tác giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội tại các
địa phương; quan tâm hỗ trợ, chăm sóc người nghèo,
người có hoàn cảnh khó khăn, người yếu thế trong xã hội, nhất là những người
nghèo bị ảnh hưởng, tác động bởi thiên tai, đại dịch COVID-19.
Nhà nước cần tập trung ưu tiên nguồn
lực đầu tư cho địa bàn miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Có chính sách hỗ trợ
người dân tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở,
nước sạch vệ sinh thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, nhất là đường giao
thông, điện lưới để kết nối với các khu vực trung tâm, vùng động lực phát
triển. Ưu tiên đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho lao động
thuộc hộ nghèo, lao động người dân tộc thiểu số; tạo điều kiện cho lao động
thuộc hộ nghèo, lao động người dân tộc thiểu số làm việc tại các doanh nghiệp,
hỗ trợ điều kiện sinh kế tạo việc làm tại chỗ gắn với chuỗi giá trị.
Như vậy, trong thời
gian tới đối với cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, cần tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo công tác giảm nghèo bền vững; xác định giảm nghèo bền vững là chủ
trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường
xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, để thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân
dân.
Tài liệu tham khảo:
(1); (2) Đảng Cộng
sản Việt Nam (2020), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng,
Tập 1, Nxb CTQG-Sự thật, Hà Nội, tr67; tr85;
(3); Xóa đói giảm nghèo - điểm sáng trong bảo đảm
nhân quyền ở Việt Nam, tạp chí Quốc phòng toàn dân, ngày 08/12/2021;
(4); (5) Nghị định số 27/2021/QĐ-CP, ngày 27/01/2021
của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội,
công bố kết quả và rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2021;
(6). https: //tgpl.moj.go.vn/chuanngheodachieugiaidoan 2021-
2025.
Ths. Đinh Thị Minh
Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở
|