Nguồn
nhân lực của một quốc gia (hay của một ngành, địa phương) là tổng thể số lượng và chất lượng con người (bộ phận hiện có và bộ phận tiềm tàng) với tổng hòa các tiêu chí về trí lực (trình độ, trí tuệ), thể lực
(sự dẻo dai, khả năng chống lại bệnh
tật...) và tâm lực (những phẩm chất
đạo đức, tinh thần thái độ) tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì
sự phát triển và tiến bộ xã hội.(1)
Dân số trung bình năm
2021 của tỉnh Ninh Bình đạt 1.007,6 nghìn người, tăng 1,4% (+13,6
nghìn người) so với năm 2020, chia ra: dân số nam 502,8 nghìn người, chiếm
49,9%; dân số nữ 504,8 nghìn người, chiếm 50,1%; dân số thành thị 216,5 nghìn người, chiếm 21,5%; dân số nông thôn 791,1 nghìn
người, chiếm 78,5%. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở
lên trên địa bàn tỉnh năm 2021 ước tính 568.5 nghìn
người, tăng 0,9% so với năm trước. Chia ra, khu vực thành thị 106,8 nghìn
người, chiếm 18,8%; khu vực nông thôn 461,7 nghìn người, chiếm 81,2%. Tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong
nền kinh tế sơ bộ năm 2021 đạt 556,6 nghìn người, giảm 0,1% so với năm 2020.
Chia ra: lao động ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản 160,5 nghìn người, tăng
0,3%; lao động ngành công nghiệp, xây dựng 218,4 nghìn người, giảm 0,1%; lao
động ngành dịch vụ 177,7 nghìn người, giảm 0,3%.(2)
Nhận
thức việc phát triển nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ, mục tiêu quan
trọng trong tình hình mới hội nhập quốc tế, là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội. Sau khi Nghị quyết số 06-NQ/TU, ngày 28/12/2016 của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Ninh
Bình đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được ban hành và Nghị quyết
26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Ban chấp hành Trung ương khóa XII về tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Tỉnh ủy Ninh Bình đã xây dựng Kế hoạch số
111-KH/TU, ngày 31/7/2018 để triển khai thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW, ngày
19/5/2018, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch 23/KH-UBND ngày 14/3/2017 tổ chức
thực hiện Nghị quyết.
Qua
05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU, được sự quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc,
các ban, ngành, đoàn thể và toàn xã hội, công tác phát triển nguồn
nhân lực, nhiệm vụ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đã được lồng ghép thực
hiện có hiệu quả. Đến hết năm 2020 có
10/11 mục tiêu đạt và vượt chỉ tiêu đề ra; trong đó, 04 mục tiêu vượt chỉ tiêu
đề ra, 06 mục tiêu đạt chỉ tiêu, cụ thể như sau: số
dược sỹ/1 vạn dân là 2,29 (vượt); số bác sỹ/1 vạn dân là 12,5 (vượt); cán bộ, công chức được đào tạo, bồi
dưỡng đạt tiêu chuẩn theo quy định là 100% (vượt); cán bộ, công chức thực
hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc theo quy định là 91% (vượt); tỷ lệ lao động được đào tạo nghề là
55% (đạt), trong đó số lao động được đào tạo là 85.000 lao động; tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi là 12 (đạt); cán bộ, công chức cấp xã có trình độ từ
trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp lý luận chính trị trở lên là 100% (đạt),
trong đó cán bộ chủ chốt Đảng, chính quyền dưới 50 tuổi có trình độ đại học là
100% (đạt); lãnh đạo cấp phòng và tương đương
cấp huyện, cấp tỉnh có trình độ trung cấp lý luận chính trị-hành chính trở lên là 100% (đạt); số người luyện tập thể dục, thể thao thường xuyên là 30% (đạt); các
trường học thực hiện nhiệm vụ giáo dục thể chất đảm bảo chuẩn chất lượng là
100% (đạt).(3)
Từ những kết quả đạt được cho thấy, chất
lượng nguồn nhân lực của tỉnh từng bước được nâng lên, dần đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực của tỉnh cơ bản duy trì được tốc độ phát
triển hợp lý về mặt số lượng và chất lượng. Cơ cấu nguồn nhân lực có sự chuyển
dịch tích cực theo ngành, lĩnh vực có thế mạnh của địa phương (lao động
trong khối ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 41,58% năm 2016, xuống còn 30,3%
năm 2020; công nghiệp - xây dựng từ 31,03% năm 2016 tăng lên 37,6% vào năm
2020; thương mại, dịch vụ từ 27,39% năm 2016 tăng lên 32,1% vào năm 2020).
Công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của
Đảng, ngày càng đi vào nền nếp. Đào tạo nghề cho lao động trực tiếp được quan
tâm, tay nghề và đạo đức, văn hóa người lao động được nâng lên, có khả năng tiếp
cận khoa học - công nghệ, góp phần tăng năng suất lao động. Vì vậy, tỷ lệ thất nghiệp liên tục giảm và là một
trong số ít tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp thấp so với tỷ lệ chung của cả nước (cả
nước là 2,52%, Ninh Bình là 1,37%). Thu nhập bình quân của người lao động đạt 64,91 triệu đồng/năm, tăng
54% so với năm 2015.(4)
Công
tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân được chú trọng, chất lượng cuộc sống của
người dân ngày một nâng cao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ chăm sóc
sức khỏe Nhân dân, giáo dục và dạy nghề tiếp tục được quan tâm đầu tư, nâng cấp
theo hướng hiện đại. Công tác chăm sóc sức khỏe Nhân dân, phòng chống dịch bệnh
được thực hiện có hiệu quả. Tuổi thọ bình quân của tỉnh Ninh Bình đạt 74,2 tuổi
cao hơn so với bình quân cả nước 73,7 tuổi.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực
hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU còn một số tồn tại, hạn chế: thiếu chuyên gia, cán
bộ quản lý doanh nghiệp, quản lý công nghệ giỏi; thiếu kỹ sư, công nhân kỹ
thuật lành nghề để đáp ứng yêu cầu sản xuất, thu hút đầu tư. Phát triển đội ngũ
nhân lực, đặc biệt nhân lực khoa học công nghệ có trình độ kỹ thuật, kỹ năng
cao làm chủ được khoa học công nghệ tiên tiến tại các doanh nghiệp còn yếu. Đào
tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, mới chỉ tập trung đào
tạo đại trà, ngắn hạn chưa đủ điều kiện đào tạo lực lượng lao động có chuyên
môn kỹ thuật cao; cơ cấu ngành, nghề đào tạo lao động còn thiếu so với yêu cầu
của nền kinh tế và của thị trường lao động. Công tác dự báo nguồn nhân lực chưa
kịp thời, thiếu chính xác; công tác định hướng nghề nghiệp, đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực còn nhiều bất cập. Xã hội hóa đầu tư phát triển cho lĩnh vực
giáo dục - dạy nghề và y tế chưa cao. Một số chỉ tiêu phát triển nguồn nhân lực
tỉnh Ninh Bình không đạt mục tiêu đề ra và không còn phù hợp với tình hình thực
tiễn như: tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 65% thấp hơn mức đề ra trong Nghị
quyết 06 là 15%; chính sách thu hút, tuyển dụng nguồn nhân lực có trình độ
cao theo Nghị quyết số 27/2011/NQ-HĐND ngày 15/12/2011 của HĐND tỉnh đã bị bãi
bỏ do không phù hợp với các quy định của Trung ương.
Nguyên
nhân của tồn tại, hạn chế là do sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội với doanh nghiệp trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển nguồn
nhân lực chưa chặt chẽ; hệ thống thông tin dữ liệu lao động, việc làm của tỉnh
chưa đầy đủ, công tác định hướng, quy hoạch và phân luồng đào tạo còn nhiều bất
cập; đào tạo chưa gắn với nhu cầu xã hội.
Nhân lực là yếu tố quyết định đến thành công và
tiến bộ của mỗi quốc gia, trong đó trình độ phát triển nguồn nhân lực là thước
đo chủ yếu đánh giá mức độ tiến bộ xã hội, công bằng và phát triển bền vững. Do
vậy, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh trong thời gian tới cần
thực hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về phát triển
nguồn nhân lực
Các cấp ủy đảng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt và tổ chức thực hiện
Nghị quyết, tuyên truyền về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của phát triển nhân
lực trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tổ chức tuyên truyền và định
hướng nghề nghiệp đối với người dân, chú trọng đối tượng học sinh, sinh viên;
khẳng định đào tạo để có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu
của thị trường lao động là cơ hội để phát triển bản thân, tăng khả năng có việc
làm, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống. Khuyến khích cán bộ, công chức,
viên chức và người lao động nâng cao ý thức học và tự học, học tập suốt đời,
phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng tốt hơn công việc được
giao; tăng cường tính kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm trong mọi hoạt động lao
động, sản xuất.
Thứ hai, đổi mới công tác quản lý nhà
nước về sử dụng và phát huy hiệu quả nguồn nhân lực
Thường
xuyên rà soát, đánh giá chất lượng nhân lực; nâng cao năng lực hệ thống dự báo
nguồn nhân lực và thông tin thị trường lao động, gắn với đẩy mạnh giải quyết
việc làm. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, các công cụ phát triển
nhân lực về phát triển thị trường lao động, chính sách lao động - việc làm, bảo
hiểm, chính sách xã hội, nhà ở.
Xây
dựng, ban hành chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao (các chuyên
gia, cán bộ khoa học kỹ thuật có chuyên môn cao) đến làm việc tại tỉnh phù hợp
với điều kiện thực tế tại địa phương. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ dự nguồn, lãnh đạo quản lý, cán bộ nữ, cán bộ người dân
tộc thiếu số; nhất là cán bộ trẻ, bảo đảm yêu cầu, tiêu chuẩn chức danh quy
định trước khi bố trí, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử và bảo đảm tính kế
thừa, phát triển của đội ngũ cán bộ.
Thứ ba, phát
triển toàn diện giáo dục và đào tạo, đổi mới giáo dục nghề nghiệp
Tiếp
tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung
ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Rà soát, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục, đào
tạo và dạy nghề phù hợp với điều kiện phát triển và quy hoạch của địa phương.
Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu dạy và học, hiện đại hóa,
nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục mũi nhọn và chất lượng dạy nghề tại
các trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo, xây dựng hệ thống trường chất lượng cao ở các bậc học.
Chú trọng công tác hướng nghiệp, phân luồng, liên thông trong giáo dục, đào tạo
gắn với nhu cầu xã hội.
Đa
dạng hóa các hình thức học tập, ứng dụng hiệu quả công nghệ số, từng bước hoàn
thiện tài nguyên số phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu. Đổi mới nội dung,
hình thức dạy nghề cho lao động nông thôn; đào tạo nghề gắn với giải quyết việc
làm cần tập trung theo hướng các ngành nghề mà tỉnh thu hút đầu tư, đáp ứng nhu
cầu lao động cho các dự án đang triển khai trên địa bàn tỉnh, góp phần giải
quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, xây dựng nông thôn mới.
Thứ tư, nâng cao thể lực và tầm vóc
nguồn nhân lực
Tăng
cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân trong tình hình
mới theo tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành
Trung ương. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án tổng thể phát triển thể lực,
tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030 theo Quyết định số 641/QĐ-TTg ngày
28/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Tập trung củng cố hệ thống y tế từ tỉnh
đến cơ sở, bảo đảm mọi người dân có thể tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe có chất lượng. Thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu y tế, nâng
cao năng lực phòng, chống dịch bệnh; thực hiện tốt công tác phòng, chống suy
dinh dưỡng, đuối nước ở trẻ em; quan tâm chăm sóc sức khỏe học đường cho học
sinh, bảo đảm có sức khỏe tốt khi trưởng thành, nâng cao tuổi thọ. Xây dựng mô
hình bác sĩ gia đình, đội ngũ cán bộ, viên chức y tế tuyến cơ sở có đủ năng lực
chuyên môn thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, nhất là tại các
vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc.
Tập
trung xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, phát triển thể dục, thể
thao toàn dân để tăng cường sức khỏe của Nhân dân, đồng thời làm cơ sở phát
triển thể dục, thể thao thành tích cao. Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống thiết chế
văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho Nhân dân.
Thứ năm, đẩy mạnh sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và phát triển ngành nghề tạo việc làm để thu hút nguồn nhân lực
Tập
trung cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; từng
bước đổi mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các ngành,
lĩnh vực có hiệu quả kinh tế cao gắn với bảo vệ môi trường, trong đó ưu tiên
những ngành nghề, lĩnh vực như: công nghiệp điện tử; công nghiệp sản xuất, lắp
ráp ô tô, công nghiệp phụ trợ; vật liệu mới; công nghiệp chế biến, chế tạo phục
vụ sản xuất nông nghiệp và dịch vụ du lịch... Mở rộng hợp tác kinh tế, tạo
chuỗi liên kết ngành, vùng, liên vùng và quốc tế. Phát triển các thành phần
kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; xây dựng và triển khai các cơ chế, chính
sách phù hợp tạo điều kiện để khơi thông các nguồn lực cho phát triển; quan
tâm, tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế quy mô lớn, có tiềm lực mạnh hoạt
động có hiệu quả và tăng sức cạnh tranh.
Thứ sáu, đa dạng hóa các nguồn lực,
đẩy mạnh hợp tác trong đào tạo và phát triển khoa học công nghệ theo hướng đổi
mới sáng tạo
Đẩy
mạnh huy động các nguồn lực xã hội hóa đầu tư trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức
khỏe, giáo dục và đào tạo, giáo dục nghề nghiệp thông qua các chính sách ưu đãi
về thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ về đất đai và ưu đãi tín dụng... để tranh
thủ tối đa các nguồn vốn đầu tư phát triển nguồn nhân lực; lồng ghép mục tiêu
phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các chương trình, dự án.
Hằng năm, cân đối, bố trí ngân sách nhà nước hợp lý phát triền nguồn nhân lực.
Tăng cường phối hợp, liên kết với các cơ sở đào tạo có uy tín trong nước và
nước ngoài để nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo; mở rộng quan hệ giao lưu,
trao đổi, hợp tác về đào tạo, chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ, khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo, sử dụng nhân lực.
Trong
bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để “Xây
dựng Ninh Bình thành trung tâm du lịch của cả nước; phấn đấu đến năm 2025 là
tỉnh phát triển trung bình khá, đến năm 2030 trở thành tỉnh khá của khu vực
đồng bằng sông Hồng”(5), toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân Ninh Bình đang nỗ lực, quyết tâm thực hiện tốt khâu đột phá “nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(6) đã được Đại
hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020- 2025 đề ra./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1) Nguyễn Tử Hoài
Sơn: Chất lượng nguồn nhân lực quản lý nhà nước về kinh tế ở tỉnh Ninh Bình
hiện nay, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị, H, 2018, tr.38.
(7) Tỉnh ủy Ninh Bình: Kết luận số 92 - KL/TU về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
06-NQ/TU, ngày 28/12/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nguồn
nhân lực tỉnh Ninh Bình đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ngày 21/10/2021.
Th.s Đinh Thị Tuyết
Nhung
Giảng viên chính Khoa Nhà nước và pháp luật
|