Kinh tế số là một khái niệm
mới, được các tổ chức quốc tế và các quốc gia quan tâm, bàn luận nhiều trong những
năm gần đây. Trong điều kiện Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ mạnh mẽ,kinh tế
số được dự đoán sẽ làm thay đổi căn bản về chất đời sống kinh tế - xã hội của
nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, khi
đại dịch bệnh Covid-19diễn ra, phát triển kinh tế số được coi là giải pháp quan
trọng nhằm giúp các nước thoát khỏi suy giảm kinh tế, đẩy cao tốc độ tăng trưởng.
Hiện nay, về mặt học thuật thì
có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm kinh tế số. Theo từ điển bách
khoa Wikipedia, kinh tế số (digital economy) là nền kinh tế vận hành dựa trên
các công nghệ điện toán kỹ thuật số. Nhóm cộng tác kinh tế số của Trường Đại học
Oxford thì xác định kinh tế số là một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công
nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua internet. Diễn
đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam năm 2019 thì lại cho rằng kinh tế số là toàn bộ hoạt
động kinh tế dựa trên nền tảng số và phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ
số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới.
Ở nước ta, mặc dù kinh tế số về cơ bản là phát triển tự
phát nhưng tăng trưởng khá nhanh chóng cả về nền tảng hạ tầng lẫn thị trường
kinh doanh. Với dân số gần 100 triệu người, Việt Nam được đánh giá là một trong
những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN. Để
hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, lần đầu tiên
trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhắc đến thuật ngữ kinh tế số và xác định
phát triển kinh tế số là một trong những khâu đột phá quan trọng giúp phát triển
nền kinh tế Việt Nam trong tình hình mới, góp phần thu hẹp khoảng cách tụt hậu so
với các nền kinh tế lớn.
Thực tế cho thấy, tuy khái niệm kinh tế số lần đầu được nhắc
đến trong văn kiện Đại hội XIII, nhưng trước đó, trong các văn kiện của các Đại
hội IX, X, XI, XII, Đảng cũng đã nhấn mạnh đến việc phải phát triển kinh tế tri
thức. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó việc tạo ra, truyền bá và sử
dụng tri thức là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng, của quá trình tạo ra của
cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế. Đó là một nền kinh tế công nghệ
cao, sử dụng chất xám trong mọi lĩnh vực và lấy tri thức làm động lực, là công
cụ phục vụ cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội.Như vậy, bản thân kinh tế số là một
biểu hiện của nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện thuận lợi của cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0, trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19, để hiện thực hóa
mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại, xây dựng thành công nền kinh tế
tri thức, điều cần thiết là phải phát triển kinh tế số.Sự phát triển nhận thức
của Đảng từ kinh tế tri thức tới kinh tế số là một bước chuyển đổi mang tính rõ
ràng, cụ thể hơn, dễ định lượng và dễ thực hiện, phù hợp với xu thế thời đại hơn.
Về đường lối, chủ trương phát triển kinh tế số, ngay trong
nhiệm kỳ Đại hội XII, khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ, Đảng và Nhà
nước đã ban hành một số Chỉ thị, Nghị quyết để nắm bắt cơ hội phát triển đất nước
như Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 04/5/2017 về tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng
công nghiệp 4.0; Nghị quyết số 52/NQ-TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một
số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; Chỉ
thị 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14/01/2020 về thúc đẩy phát
triển công nghệ số Việt Nam… Trên cơ sở đường lối, chủ trương trên, cùng với kỳ
vọng cuộc cách mạng số sẽ thực sự tạo ra sự bứt phá cho đất nước trong những thập
niên tới, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề cập đến phát triển kinh tế số với
định hướng rõ nét và cụ thể.
Thứ nhất, trong Văn kiện Đại hội XIII, "phát triển
kinh tế số" được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và là một
trong các đột phá chiến lược .
Hiện nay,
phát triển kinh tế số đã dần trở thành xu thế không thể đảo ngược, mở ra cho mỗi
quốc gia, mỗi nền kinh tế, mỗi tổ chức, mỗi cá nhân cơ hội phát triển chưa từng
có, gắn với đó là những thách thức và yêu cầu phải tự điều chỉnh. Báo cáo Chính
trị trình Đại hội XIII chỉ rõ: “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là
công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời
cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc”[1].
Việt Nam
đang có những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế số, vì vậy Đại hội XIII
khẳng định:đổi mới tư duy lý luận về kinh tế trong giai đoạn hiện nay
chính là tập trung phát triển mạnh mẽ nền kinh tế số, đưa nền kinh tế Việt Nam
thay đổi về chất và có bước nhảy vọt trong tiến trình phát triển mới.Đảng ta
xác định một trong những quan điểm phát triển của Việt Nam giai đoạn 2021-2030 đó là
“Phát triển nhanh và bền vững, dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng
tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời,
tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với
quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã
hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh”[2].
Trọng tâm của cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0là chuyển đổi số. Xây dựng nền kinh tế số sẽ tạo ra một cơ hội
bình đẳng như nhau để bứt phá đi lên, kể cả với các quốc gia đang phát triển
như Việt Nam. Nếu bỏ lỡ cơ hội này, Việt Nam sẽ khó khăn hơn trên con đường
phát triển.Báo cáo Chính trị nhấn mạnh: “Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới
mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước…; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi
mới sáng tạo…, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế”[3].
Thứ hai, các mục tiêu phát triển kinh tế số được xác định cụ
thể, rõ ràng trong Văn kiện.
Lộ trình phát triển kinh tế số ở Việt Nam được Đảng phân định
cụ thể. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định giai đoạn 2021-2025 “kinh
tế số đạt khoảng 20% GDP”[4];và
đến năm 2030 "kinh tế số đạt khoảng 30% GDP; đứng trong nhóm 50 quốc gia
hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh
tế số"[5].
Đây là những mục tiêu đầy tham vọng nhưng không phải là bất khả thi. Bởi lẽ, tốc
độ phát triển hạ tầng công nghệ số hiện nay của Việt Nam được đánh giá tương đối
nhanh; các công nghệ số ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong nền kinh tế.
Thứ ba,Văn kiện Đại hội XIII cũng đã xác định những phương
hướng và giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế số.
Để phát triển mạnh mẽ kinh tế số, Văn kiện chỉ rõ phải tập
trung vào các nội dung sau:
Một là, phải xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật,
chính sách nhằm tạo khuôn khổ cho kinh tế số phát triển.Để làm được điều này, cần
phải “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển,
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số”[6].
Hai là,phải xác định rõ động lực phát triển kinh tế
số là Khoa học - Công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực số chất lượng
cao, đồng thời đưa ra các nhiệm vụ cụ thể đối với từng động lực. Nghị quyết Đại
hội XIII nhấn mạnh: “đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số
trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”[7].
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 xác định cần phải đổi mới
mạnh mẽ đối với các ngành kinh tế mũi nhọn, tập trung nghiên cứu, ứng dụng công
nghệ lõi, công nghệ số. Đây là một trong những khâu quan trọng để nền kinh tế số
có thể hình thành và phát triển.
Bên cạnh phát triển khoa học - công nghệ, Văn kiện cũng nhấn
mạnh đến vai trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong nền kinh tế số. Muốn
xây dựng nền kinh tế số thì cần “Chuẩn bị
nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số”[8]. Và
để làm được điều này thì cần “đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân
lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú
trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật số, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ”[9].
Ba là, phải xác định những ngành, lĩnh vực đột phá,những
lĩnh vực nền tảng để phát triển kinh tế số. Trong Văn kiện Đại hội XIII đã xác
định và nhận diện đầy đủ những lĩnh vực kinh tế số giúp mở rộng thị trường, thúc
đẩy tiêu dùng như công nghệ số, thông tin,trí tuệ nhân tạo, cơ điện tử, tự động
hóa, điện tử y sinh, thương mại điện tử…Về nền tảng kinh tế số, Văn kiện cũng
xác định phải "chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền
tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số"[10]. Bên
cạnh đó, Văn kiện cũng cho rằng cần “phát triển một số doanh nghiệp viễn thông,
công nghệ thông tin chủ lực thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ,
tạo nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số”[11].
Ngoài các nội dung trên, khi đề cập đến phát triển kinh tế
số, Văn kiện Đại hội XIII cũng đã quan tâm đến mặt trái của việc phát triển
công nghệ số đó là vấn đề an toàn an ninh mạng, những mâu thuẫn giữa mô hình
kinh doanh truyền thống với mô hình kinh doanh mới dựa trên nền tảng số, những
vấn đề xã hội liên quan đến nguồn nhân lực chịu ảnh hưởng của cách mạng số…Để xây
dựng nền tảng bền vững cho kinh tế số, Văn kiện xác định: “Xây dựng các cơ chế,
chính sách và giải pháp để đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi ngành
nghề do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động của
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”[12];
“Hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ”[13];
“Xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, bảo đảm hạ tầng kỹ
thuật an toàn, an ninh thông tin”[14]…
Phát
triển kinh tế số vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội tốt để Việt Nam có thể
tận dụng trong phát triển kinh tế đất nước. Nắm bắt đúng xu thế của thế giới,
phát triển kinh tế số sẽ là con đường tạo ra những bứt phá quan trọng, qua đó
Việt Nam đạt mục tiêu đến năm 2045 "trở thành nước phát triển, có thu nhập
cao". Vì điều kiện lịch sử,
Việt Nam đã bỏ qua nhiều cơ hội để bứt phá trong quá khứ. Để nắm bắt được “cơ hội
vàng” mà Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến, cần phải có sự nỗ lực từ nhiều
phía, từ Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp đến toàn thể Nhân dân. Chắc chắn rằng,
với một quyết tâm chính trị cao, cách tiếp cận đúng đắn, Việt Nam sẽ tận dụng
được cơ hội này để bứt phá thành công, vươn lên sánh vai cùng với những cường
quốc lớn về kinh tế, như điều từng mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
[1]Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tập
1, tr106.
[2]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr214.
[3]Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr115.
[4]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật,tập
2, tr327.
[5]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr225.
[6]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr132.
[7]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 2, tr329.
[8]Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 2, tr128.
[9]Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 2, tr231.
[10]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 2, tr338.
[11]Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 2, tr107.
[12]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr137.
[13]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 2, tr335.
[14]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 2, tr122.
Ths
Phạm Thị Thanh Xuân
Khoa Xây dựng Đảng
|